CHIỀU GIÓ
Tặng những người sống ở Vĩnh Long.
Bây
giờ là buổi chiều cuối năm. Trong thời khắc giao mùa chộn rộn này, hầu như mọi
người, ai ai cũng vội vội vàng vàng, cố gắng giải quyết cho xong việc ngoài
phố, rồi trở về một nơi nào đó được xem như là tổ ấm của mình, chuẫn bị mọi thứ
để đón chào mùa xuân mới! Như chỉ trong một đoạn đường nhỏ hẹp, đã có rất nhiều
dấu chân đi qua, rầm rập những bước chân đời qua lại bộn bề. Thông qua hình ảnh
những bàn chân, người ta có thể thấy được niềm hạnh phúc của người giàu có đan
xen với nỗi bất hạnh của những kẻ nghèo! Có những đôi chân nhỏ nhắn nuột nà
mang hài đỏ cài hoa lóng lánh, có những bàn chân to đùng với đôi hia bóng loáng,
có những bàn chân cong queo tàn tật kèm theo nạng gỗ, lại có cả những bàn chân
trần dính đầy bùn đất cáu bẩn …
Dọc
theo lề con lộ nằm cặp theo mé sông là chợ hoa Tết với đủ các loài hoa muôn
hồng nghìn tía đang khoe sắc hương. Nào là cúc đại đóa với màu vàng kiêu sa,
nào là hoa hồng tượng trưng cho tình yêu có các màu đỏ, vàng, trắng, phớt
hồng…, nào là tulip, nào là dạ yên thảo, rồi cẩm chướng, thược dược, cẩm tú
cầu… Xen kẻ trong muôn hoa rực rỡ hương xuân kia là bóng dáng những nông dân
vận áo quần lam lũ, chủ nhân của các gánh hàng hoa. Còn những khách mua hay
ngắm hoa đi rảo rảo loanh quanh các hàng hoa để tìm món hàng mình ưng ý. Tiếng
huyên náo, tiếng cò kè ngã giá bớt một thêm hai, tiếng xe chạy ngang qua … mọi
thứ như khuấy động những giây phút hấp hối buổi chiều cuối cùng của năm cũ.
Duy
chỉ có một người đàn ông vừa mới bước qua khỏi tuổi trung niên với dáng vẻ,
phục sức sang trọng là chẳng có vẻ gì gấp gáp cả! Dường như ông ta đến từ một
nơi nào đó rất xa xôi và đã ngồi trên chiếc ghế đá cạnh bờ sông Cái này đã lâu,
mặt hướng về phía dòng sông. Thỉnh thoảng, ông ta đảo mắt nhìn lơ đãng mọi thứ
chung quanh. Không biết bao nhiêu năm rồi, cứ vào buổi chiều cuối cùng của năm,
ông đều đến đây để kiếm tìm một kỷ niệm, hay nói đúng hơn là MỘT NGƯỜI. Đó là
một người con gái, người yêu đầu đời của ông, người đã biến mất khỏi cuộc đời
ông suốt ba mươi mấy năm nay mà chẳng hề để lại dấu vết gì! Và năm nào cũng
vậy, hình bóng của người con gái ấy cũng chỉ như bóng chim tăm cá, mọi tin tức
về nàng tựa như những vũ điệu trong bóng mờ.
Khi
ánh hoàng hôn tắt lịm phía chân trời, báo hiệu ngày đã lụi tàn, ông thở dài và
đứng dậy, có vẻ như đang sắp sửa rời khỏi chỗ ngồi. Bỗng nhiên, ông ta giật
mình như bị điện giật khi ánh mắt chạm vào một người đàn ông trông có vẻ quê
mùa đang ôm mấy cành mai đứng lẫn trong đám người lố nhố phía đàng xa.
“Trời
ơi!”. Ông ta thảng thốt kêu lên thành tiếng và bước những bước đi dài hơi xiêu
vẹo về phía người đàn ông kia. Đôi khi ông ta loạng choạng suýt ngã vì bị đám
đông xô đẩy, nhưng cuối cùng ông cũng đã đối diện người mà ông cần tìm gặp!
-
Đã gần bốn mươi năm rồi, phải không anh Tư? Sau những giây phút yên lặng vì xúc
cảm ngập tràn, cuối cùng người đàn ông có dáng vẻ sang trọng mở lời trước.
-
Ông… anh Thụy! Thật bất ngờ quá! Người đàn ông được gọi là “anh Tư” đáp lại:
Thế
là họ cùng ôm chặt lấy nhau. Rồi bỏ mặc dòng người đang hối hả ngược xuôi, họ
cùng nhau trở về quá khứ, thuở tóc họ hãy còn xanh, thuở dấu chân chim của thời
gian chưa hằn lên đuôi mắt họ!
Giữa
dòng đời rực rỡ hương sắc mùa xuân kia, đâu có ai biết rằng chính họ đã từng là
nhân chứng sống của một thời kỳ đáng nguyền rủa, một thời kỳ đáng để lụi tàn
theo thời gian …
Chẳng
biết tự bao giờ, người ta xây một cái cầu tàu de ra ngoài ngả ba sông, nơi con
sông Cổ Chiên tiếp giáp với sông nhánh Long Hồ. Ngày xưa, cái ponton này từng
là bến tàu khách, lúc nào cũng nườm nượp người đi kẻ đến. Từ ngày khói lửa
chiến tranh lan tràn đến sát thành phố, người ta trưng dụng nó trở thành nơi
neo đậu của những chiếc tàu chiến. Đôi khi, mặt ponton cũng là nơi mấy chiếc
trực thăng hạ cánh để tải thương. Vì thế, ngày ngày luôn có những chiếc xe quân
sự, xe cứu thương túc trực. Cứ mỗi lần có tiếng đại bác vọng về đì đùng, rầm rì
tiếng máy bay ngang qua bầu trời phố thị, hoặc rầm rập tiếng xe nhà binh, thì
nơi cầu tàu oan nghiệt đó lại xuất hiện rất nhiều tử thi và người bị thương! Có
những lúc chiến sự nổ ra ác liệt, người ta chứng kiến máu nhuộm đỏ cả một đoạn
đường! Hình ảnh những người lính đang gấp gáp chạy theo những chiếc băng ca
dính đầy máu dưới ánh sáng chập chờn của hỏa châu trông thê lương tựa như cảnh
tượng nơi hỏa ngục!
Mặc
tình cho chiến sự đang xảy ra kề cận, trong dãy Bungalow nằm sát nách với
ponton là vũ trường “Kim Sơn”. Ngày ngày, kề bên địa ngục có thật là cái thiên
đường giả tạo, nơi những quý ông thừa tiền, thừa tình nhưng vẫn cứ muốn đến
chơi cho thỏa thích vì không biết ngày mai sẽ ra sao; hoặc các quý cô hay quý
bà nạ dòng muốn tới đó để bẹo hình bẹo dạng; hoặc các binh sĩ vừa trở về từ mặt
trận, họ quan niệm thà cứ chơi đi, chơi đả đời đi rồi chết bởi những viên đạn
vô hình không biết xuất hiện từ nơi nào! (Trong chiến tranh, người ta khó có
thể nhận biết ai là người thù, họ từ đâu đến và biến mất như thế nào!) Tấp nập
ra vào nơi đây là các cô gái áo quần lòe loẹt, phấn son diêm dúa. Họ đeo thẹo
sát cánh những người lắm tiền nhiều của no cơm rửng mỡ hoặc các sĩ quan còn độc
thân. Mặc tình cho cái chết đang lơ lửng trước mắt, đêm đêm họ vẫn cứ ôm ghì
siết lấy nhau dưới ánh đèn màu nhấp nháy của cái thiên đường giả tạo ngay kề
bên địa ngục có thật này!
Thụy
là nhân viên tạp vụ của vũ trường Kim Sơn. Công việc chính của anh mỗi đêm là
quét dọn hai dãy nhà vệ sinh - cả nam lẫn nữ -. Với công việc này, thoạt đầu,
khi chưa quen việc, Thụy thường bị triệu chứng ọi mửa mỗi khi nhìn thấy các thứ
ô uế. Nhưng dần dà, anh lại thích nghi với nó; bởi vì, những đồng tiền “boa”
hậu hĩnh của các quý bà, quý ông đã làm cho Thụy quên đi cái cảm giác khó chịu
khi ngửi mùi xú uế!
Phía
sau vũ trường là dãy ban công nhìn thẳng xuống ponton, nơi hiện là bến tàu quân
sự.. Còn bên kia sông là cù lao An Bình thuộc dãy cù lao Minh thấp thoáng sau
những rặng thủy liễu mọc chi chít kéo dài cho đến tận khúc ngoặt của mũi Đầu
Ông Vố. Ngày ấy, phía bên kia sông hãy còn hoang sơ lắm! Những lúc rãnh rang
vào giữa khuya, Thụy thường ra đứng ngoài ban công thả tầm mắt nhìn bao quát
chung quanh. Từ lâu, anh đã có thói quen đêm đêm nhìn xuống vực nước xoáy, chỗ
tiếp giáp của ngã ba sông. (Chỗ nước vận này, thỉnh thoảng nổi lên một số chồng
chổng không đầu!). Rồi lần lượt anh nhìn vào từng chi tiết các sự việc, chẳng
hạn trên sông đang có bao nhiêu con thuyền quay mũi về đâu, con nước đang ròng
hay đang lớn, có bao nhiêu giề lục bình xanh rờn trôi theo dòng nước … Cũng có
đôi khi vào những đêm trăng sáng, Thụy hướng mắt nhìn lên bầu trời chi chít
sao, tâm hồn như ngất ngây trước sự huyền diệu của vũ trụ. Nhưng cũng có đôi
khi anh chỉ lơ đãng thả cái nhìn mơ hồ trên tổng thể.
Một
đêm, không gian quen thuộc của Thụy bị chiếm hữu bởi Dạ Hương, một ca sĩ trẻ
của vũ trường. Dõi theo ánh nhìn của Dạ Hương, anh thấy nàng thường xuyên chú ý
nhìn rất lâu về phía vùng tối đen của dãy cù lao Minh. Sau nhiều đêm như thế,
có lần Thụy đã bạo dạn tiến đến gần Dạ Hương, bày tỏ thắc mắc của mình. Lần đó,
Dạ Hương đã nhìn chằm chằm thật lâu vào Thụy, sau đó chỉ nói gọn một câu: ”Có
bạn ở nơi ấy!”
Ở
Kim Sơn, Dạ Hương không phải là ca sĩ ngôi sao. Đêm đêm, nàng thường hát nhạc
tiền chiến của Đoàn Chuẩn-Từ Linh hay những bản tình ca của Ngô Thụy Miên,
Trịnh Công Sơn. Thế nhưng, giọng hát ủ ê, nhan sắc cũng dễ nhìn cộng với mái
tóc dài liêu trai của nàng cũng đã khiến cho không ít người khác phái phải
trồng cây si! Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là phẩm hạnh của nàng. Khác với
phần lớn ca sĩ khác là có cuộc sống thác loạn, tính tình Dạ Hương rất đoan
trang, mẫu mực. (Đôi khi, Thụy có cảm tưởng rằng trong đầu nàng đang ẩn chứa
nhiều điều bí ẩn!)
Sau
lần đó, có vẻ như Dạ Hương bắt đầu chú ý đến Thụy. Mỗi lần ra vào nhà vệ sinh,
gần như bao giờ nàng cũng ban phát cho Thụy một cái liếc mắt hoặc một nụ cười
mỉm. (Điều này khiến cho Thụy cảm thấy ấm lòng, cái ấm lòng của một người bình
thường đang làm một nghề tầm thường, hèn mọn). Thỉnh thoảng, mỗi khi tình cờ gặp
Thụy trên ban công, Dạ Hương nói với anh đôi ba câu vớ vẩn về thời tiết ngày
hôm đó hoặc chuyện vật giá đang leo thang vùn vụt. Mặc dù ngày nào Thụy cũng
gặp nàng, thế nhưng những gì anh biết về nàng rất mơ hồ, lập lờ. Vì thế, anh
luôn ao ước mình có thể chia sẻ với nàng một chút gì đó! Và hầu như bao giờ
nàng cũng tìm cách khước từ mọi câu hỏi của anh, hoặc đẩy nó sang câu chuyện
khác!
Thái
độ, cử chỉ của Dạ Hương đã khiến cho trái tim một thanh niên chất phác, làm một
công việc tầm thường và hèn mọn như Thụy luôn dao động! (Ôi, phải chăng là sự
dao động của một Quasimodo trước một Esméranda ma nữ?). Là một chàng trai có
tâm hồn nhạy cảm, nên sau những tín hiệu nhỏ nhặt ấy, Thụy định thu mình và
dừng lại. Thế nhưng, việc từ bỏ một con người mình chưa hiểu thấu phải chăng là
điều hết sức khó khăn? Dần dà, hình bóng của Dạ Hương luôn ngự trị trong trái
tim của Thụy. Anh đã yêu nàng tự lúc nào không biết…
Mùa
hè năm ấy, chiến tranh càng lúc càng trở nên khốc liệt. Khói lửa chiến tranh
bay mù theo gió, lan tràn khắp nẽo quê hương. Không khí chết chóc bao trùm khắp
mọi nơi. Riêng ở vũ trường Kim Sơn hình như không khí càng lúc càng trở nên
cuồng loạn hơn. Người ta lao vào cuộc chơi hệt như những con thiêu thân. Những
chiếc áo trận còn đậm mùi thuốc súng càng ngày càng xuất hiện đông đúc hơn cùng
với những pha quậy quạng của bọn xã hội đen xảy ra nhan nhản ngay trong lòng
phố thị. Phòng trà, vũ trường là mục tiêu chính cho các cuộc giành gái, bắn
giết lẫn nhau của bọn lính chiến từ chiến trường trốn về. Hết tương lai rồi!
“Chơi
đả đi rồi ngày mai chết!” Đó là câu nói đầu môi của những kẻ vác súng đi quậy
phá. Họ rất muốn bị bắt, bởi vì bị bắt ở tù để khỏi phải ra chiến trường, mà
khỏi ra chiến trường đồng nghĩa với được sống!
Một
lần, khi đổ rác thải vào ban đêm, tình cờ Thụy bắt gặp Dạ Hương đang tiếp xúc
với một người trong đám loạn binh kia! Liền sau đó, người ấy vội vàng leo lên
chiếc Mobilette đen, phóng rất nhanh rồi biến mất trong màn đêm. Rồi nhiều lần
như thế đã lập đi lập lại! Có mấy lần Dạ Hương dọ hỏi Thụy đã nhìn thấy những
gì, và nàng luôn cảm thấy an tâm qua cách trả lời của Thụy. (Thật ra, Thụy
chẳng hiểu gì việc làm của Dạ Hương và người lính trẻ kia. Nhưng đối với một
người đã trao trọn trái tim cho nàng, thì chẳng có việc gì Dạ Hương phải lo
ngại cả!)
Qua
những lần đó, hình như Dạ Hương nhận biết được tình yêu đơn phương của Thụy.
Phần Thụy, anh luôn dành cho nàng trọn vẹn cảm giác biết ơn, lòng ngưỡng vọng
và cả những rung cảm đầu tiên. Nàng vẫn như hiện diện ở mọi ngõ ngách trong tâm
hồn anh.
Rồi
một buổi sáng nọ, Dạ Hương nhờ Thụy chở nàng tới một ngôi chùa nhỏ miệt ngoại
ô. Thụy đã không khỏi ngạc nhiên khi khám phá ra vị sư trẻ Dạ Hương gặp lần này
không ai khác hơn là nhân vật mà nàng đã thường gặp gỡ hàng đêm ngoài vũ trường
Kim Sơn!
Thỉnh
thoảng Thụy lại đèo Dạ Hương trên chiếc Dame cà tàng của anh đến ngôi chùa nọ.
Đôi lúc, anh cũng đi một mình đưa thư cho vị sư nọ theo sự cậy nhờ của nàng…
Một
hôm, chính Dạ Hương đã đề nghị rủ Thụy đến căn gác trọ của nàng ở một xóm lao
động bên Thiềng Đức. Hôm đó, tự tay nàng đã nấu cơm mời anh ăn, một bữa cơm
thật đạm bạc với món bầu luộc chấm với cá lóc kho tộ, tuy đơn sơ nhưng đối với
Thụy là từ trước đến giờ anh chưa được ăn bữa cơm nào ngon hơn thế!
“Dạ
Hương muốn gặp Thụy ngay đêm nay, sau giờ làm”. Đó là lời nhắn của Dạ Hương.
Đêm đó, khi Thụy đến, Dạ Hương đã chuẫn bị sẵn hai cây đèn cầy, một ốp nhang,
một dĩa trái cây và một lít rượu Sơn Đông. Tất cả được đặt trên một cái ghế
chông chênh, trên đó có sẵn một khung hình nhỏ của một người phụ nữ và một
người đàn ông tuổi độ trung niên. Dạ Hương bảo với Thụy đó là di ảnh của cha mẹ
nàng! Dưới ánh sáng tù mù của hai ngọn bạch lạp, cả hai cùng ngồi đối ẩm. Nàng
đã khóc trước mặt anh khi kể thảm cảnh của gia đình nàng khiến nàng phải mồ côi
mồ cút: ngày xưa, cha đi chăn vịt ngoài đồng bị trực thăng “cá lẹp” bắn nát
thây! Còn mẹ phải mất xác lúc dân làng tản cư khỏi vùng chiến địa do đạn pháo
trên sông! Phần Thụy, anh cũng đã cho nàng biết cuộc đời anh cũng bạc phước
chẳng khác chi nàng: lớn lên mà chẳng hề biết ai là người sinh thành ra mình,
phải lăn lóc hết gia đình này sang gia đình khác với đủ thứ cay đắng mùi đời!
Cũng đêm đó, Dạ Hương đã tự nguyện trao thân cho Thụy. Lần đầu tiên trong cuộc
đời, Thụy mới biết thế nào là ái ân; và thật diệu kỳ thay, đó lại là xác thân
của một trinh nữ!
Thế
nhưng, sau cái đêm hai người đưa nhau lên tận đỉnh Vu Sơn ấy, Dạ Hương lại biểu
hiện những thái độ kỳ lạ! Mỗi lần gặp Thụy, nàng trở lại bản tính lãnh đạm cố
hữu. Thoạt đầu, tâm hồn Thụy chưa nhận biết điều đó! Qua những chuỗi sự kiện
biểu hiện, Thụy bắt đầu mơ hồ cảm nhận: phải chăng đêm ấy chẳng qua chỉ là sự
cuốn hút nhất thời của bản năng có hai thuộc tính trái ngược nhau? Liệu sự yêu
thương của anh đối với nàng có được thấu hiểu, đồng vọng hay chăng? Phải chăng,
chai rượu Sơn Đông kia không là rượu giao bôi, nên khi nhắp vào men yêu của nó
không thể tơ vương và tình yêu chỉ là dấu chân gió chạy?
“Khi
trở dậy ở một kiếp sống khác, mình sẽ là ai?” Anh đã tự hỏi như thế, khi tỉnh
thức với những cơn đau đến tột cùng của thể xác. Từng sự kiện như những thước
phim quay chậm khi ký ức Thụy vừa hồi phục. Anh bật chồm dậy khi chợt nhớ đến
Dạ Hương, và cũng chính vừa lúc nhận biết một bên chân của anh đã lìa xa khỏi
thân thể của mình cùng với vô số vết thương chi chít trên cơ thể!
…
Đêm ấy, Thụy còn nhớ rõ chính Dạ Hương đã nhờ Thụy mang dùm nàng một túi xách
thật nặng được bọc kín từ tay vị sư trẻ trước cửa vũ trường vào tận bên trong.
Trước khi quay đi, Dạ Hương đã nhìn thật sâu vào mắt của Thụy và nói khẻ:
“Khuya nay mình sẽ gặp lại!” Lẽ ra đêm ấy là ngày Thụy được nghỉ phép, nhưng
cuối cùng phải làm tăng ca vì Tỉnh trưởng tổ chức đột xuất một đêm party dành
để chiêu đãi nhiều cố vấn Mỹ, quan chức chính quyền và sĩ quan cao cấp tại Kim
Sơn.
Một
tiếng nổ long trời, rồi nhiều tiếng nổ nữa tiếp theo… Có rất nhiều, rất nhiều
tiếng gào thét của những người bị thương. Lửa bùng cháy ở khắp mọi nơi… Thụy
chạy băng băng xuống cầu thang,nhưng không cố thoát ra khỏi vùng nguy hiểm mà
lại đi tìm Dạ Hương. Anh đang cố gắng tìm kiếm nàng trong làn khói mịt mù, giữa
hàng đống người ngập ngụa máu. Rồi lại thêm cả những tiếng nổ tiếp theo và cả
một khúc tường đổ sập xuống người Thụy…
Một
thời gian dài sau đó, Thụy rơi vào một trạng thái thật kỳ hoặc mà từ trước đến
giờ chưa có tiền lệ xảy ra: anh có cảm giác như đang bềnh bồng giữa những làn
sương mù. Tri giác như không còn hiện hữu, mọi thứ diễn ra trước mắt anh theo
một chiều hướng mất nét, nhòa lẫn và ngưng đọng. Hình như linh hồn anh đang từ
từ nhích dần xa thể xác…
Thoạt
đầu, linh giác anh cảm thấy lo sợ khi nghĩ đến cái chết. Nhưng dần dần, anh lại
thấy vô cảm trước nó; bởi vì, anh chợt nhận ra cái chết không còn gắn với nỗi
âu lo, mà trở thành cánh cửa để giải thoát khỏi khổ đau thực tại. Anh nhích
dần, nhích dần, cố dứt bỏ từng mẩu ký ức về cuộc sống để chọn cuộc ra đi thanh
thản nhất, không hân hoan mà cũng chẳng muộn phiền! Duy chỉ có một điều thật kỳ
lạ là trong quãng thời gian ấy, hình bóng của Dạ Hương không hề hiện hữu trong
những giấc mơ của anh!
Thụy
đã trãi qua nhiều ngày, nhiều đêm như thế, cho đến khi tai anh không còn văng
vẳng những tiếng kèn cất lên, vừa như một tụng ca vừa như một khúc ca bi thiết,
não nùng theo tiếng thở dài của các linh hồn phiêu dạt…
“Dạ
Hương, em ở đâu?”. Nàng là nguồn gốc của mọi cơn đau lẫn niềm hạnh phúc vẹn
toàn nhất của anh, vì thế, khi trở lại với cuộc đời, ngày nào anh cũng tìm,
cũng kiếm nàng trong vô vọng! Thế nhưng, hình bóng nàng luôn là một ẩn số, mọi
tin tức về nàng đều rất mơ hồ, lập lờ! Việc tìm kiếm nàng, mọi thứ dường như
chưa bao giờ bắt đầu, cho nên anh không thể tìm được điểm kết thúc cho nó.
Một
tháng, hai tháng, ba tháng, rồi nhiều tháng trôi qua kể từ ngày Dạ Hương mất
tích. Đôi lúc, Thụy cảm thấy cay đắng khi nghĩ rằng nàng đã làm cho anh bị tổn
thương quá đỗi! Cũng có đôi lúc anh nghĩ rằng thà anh chết đi, thà rằng anh
không còn trên cõi đời này thì sẽ dễ chịu hơn là còn sống, sống với những nỗi
khắc khoải, muộn phiền vì nàng. Nàng không hề nói với anh bất cứ điều gì về
công việc bí mật của nàng, dẫu giữa anh và nàng đã có với nhau một đêm ngà
ngọc, dẫu đã từng đến với nhau một lần tận cùng bóng lần bóng trập trùng!
Những
ngày sau đó, dẫu rằng Dạ Hương quan trọng đối với Thụy như thế nào, anh cũng đã
tìm mọi cách để quên nàng. Thế nhưng, sự phai lãng đi, chỉ là một cách chữa
lành của thời gian hay là sự đè nén của hàng trăm nỗi đau khác! Để khi được gợi
nhắc lại, mọi ký ức dù chôn sâu thế nào cũng sẽ được tái sinh, mọi cơn đau dù
nhòa phai thế nào vẫn sẽ lại âm ỉ. Khi mọi cảm giác trở thành hiện thực thì
thời gian sẽ mất đi khả năng đong đếm của nó! Nhưng dù sao đi nữa, bây giờ nàng
đã trở thành ảo ảnh. Dẫu rằng nàng đối với anh tựa như hơi thở thì anh cũng sẽ
phải thức dậy để sống cuộc đời thực của mình…
Ông
Tư chính là vị sư trẻ ngày nào! Qua câu chuyện, ông nói rằng ngày xưa Dạ Hương
và ông cùng ở chung trong tổ công tác thành. Ông cũng đã xác tín với ông Thụy
một điều quan trọng:
-Dạ
Hương đã chết mất xác! Đêm xảy ra vụ nổ, sau khi giao cho anh chiếc túi xách,
tiếp theo là vụ nổ xảy ra, trước khi tháo đi, tôi đã lảng vãng ngoài đường để
ngóng tin tức của Dạ Hương. Và trước đó, nàng có nhờ tôi trao lại cho anh quyển
nhật ký của nàng.
-Thế
quyển nhật ký ấy bây giờ ở đâu? Cô ấy đã viết những gì? Ông Thụy nêu ra câu hỏi
với ông Tư sau một lúc chết lặng cả hồn.
-Tôi
hiện còn cất giữ! Ông Tư trả lời.
-Anh
đã đọc qua rồi phải không?
-Tôi
chưa hề xem qua nhật ký của cô ấy vì tôi sợ điều đó sẽ làm tổn hại đến vong
linh của nàng, nhưng tôi khẳng định một điều là cô ấy rất yêu anh!
-Nàng
đã nói với anh điều đó lúc còn hiện hữu ư?
-Phải.
Cô ấy đã nhiều lần khẳng định với tôi như vậy!
-Tại
sao cô ấy tâm sự với anh?
-Bởi
vì cô ấy biết…chính tôi cũng yêu cô ấy như anh!… Anh biết không, ngày ấy, mỗi
lần nghe nàng tâm sự, tôi đều ghen tức với anh!
Ông
Tư chợt nhớ đến một điều quan trọng khác:
-Nếu
như tôi nhớ không nhầm thì đêm đó anh được nghỉ phép?
Ông
Thụy cảm thấy bàng hoàng khi chợt nhớ lại chuyện xưa. Phải rồi, nàng không hề
có ý hại ông! Thế mà, trong nhiều năm ông đã nghi ngờ tình yêu của nàng. Cho
nên, trời đã trừng phạt ông, để mấy mươi năm qua, nàng không hề đến với ông dù
trong những giấc chiêm bao…
Đôi
bạn, sau gần bốn mươi năm chia cách, giờ đây tóc đã điểm sương…
Tháng 6/2011
Tác giả: Hà Nguyên
0 comments:
Post a Comment