Monday, February 15, 2016
24. THƠ: TÌNH PHAI - Tín Đức
TÌNH PHAI
Thơ TÍN ĐỨC
Tình đã dần phai theo tháng năm
Lặng buồn trên mi mắt nâu đen
Tóc che nửa mái hồn phiêu bạt
Nửa mái âm âm nhuốm bụi đời
23. TRUYỆN NGẮN: Người đàn bà nhặt lá - Hà Nguyên
NGƯỜI ĐÀN BÀ NHẶT LÁ
HÀ NGUYÊN
Đã quá nửa đêm, trời mưa rả rích dai dẳng, bà Sáu vẫn còn lang thang dọc theo hè phố vắng tanh cùng với xấp vé số ế trên tay. Ròng rã từ đầu hôm đến giờ, bà chỉ mới bán vỏn vẹn chừng mươi, mười lăm tờ vé số, cho dù đã rảo qua không biết mấy vòng khu phố chợ. Bà rầu đến nẫu ruột, than thầm trong bụng:” Buôn bán ế ẩm kiểu này, ngày mai còn nguyên cả xấp làm sao tranh nổi với đám con nít đông ken hay những người trẻ tuổi nhanh tay lẹ mắt hơn mình !”
Dù đôi chân đã mõi nhừ cộng với cổ họng khô đắng vì rao mời, bà Sáu vẫn cố gắng đánh vòng trở lại một lần nữa về phía đầu chợ, nơi quán cháo trắng của cô Mai với hy vọng sẽ gặp được vị khách sộp nào đó đi ăn cháo khuya, để nếu may mắn trúng mối, bà sẽ bán được nhiều! Đã có nhiều bận, bà Sáu vô mánh đậm nhờ đám công tử con nhà giàu từ trong hộp đêm dưới Bungalow ra,hào phóng mua mão hết cả cọc vé số của bà. Thế nhưng, khi đến nơi, bà hết sức thất vọng vì quán vắng teo, chỉ có mấy tay trong băng vác mướn mình trần trùng trục đang cùng với cánh xe ôm vừa ngồi nhậu lai rai, vừa chờ khách hoặc đón các mối hàng khuya!
Đang đứng co ro sát hàng ba của khu bách hóa mới, bà Sáu mừng quýnh khi bóng dáng chiếc xe du lịch đời mới đổ xịch trước quán cháo. Một đám choai choai nam có, nữ có nhảy ào ra khỏi xe cười nói huyên thuyên, làm huyên náo cả khu phố đêm đang tĩnh lặng. ( Có thể bọn họ vừa tàn một cuộc chơi, nhưng cũng có khi đây chỉ là thời khắc khởi điểm trước khi bọn họ “over night”(qua đêm) ở một xó xỉnh nào đó trong cái thị xã nhỏ bé này!
Sau khi đợi cho bọn họ yên vị, bà Sáu tiến lại gần rồi móc vé số ra mời. Bà ta chìa từng cùi vé ra theo hình nan quạt, cốt cho họ thấy rõ những con số đẹp, gồm cả số gánh, số bầy …. Thế nhưng, đám nam thanh nữ tú này vẫn nói cười vang rân, chẳng hề lưu tâm hay đếm xỉa gì đến tiếng chào mời hết sức tha thiết của bà!
22. TRUYỆN NGẮN: Chiều gió - Hà Nguyên
CHIỀU GIÓ
Tặng những người sống ở Vĩnh Long.
Bây
giờ là buổi chiều cuối năm. Trong thời khắc giao mùa chộn rộn này, hầu như mọi
người, ai ai cũng vội vội vàng vàng, cố gắng giải quyết cho xong việc ngoài
phố, rồi trở về một nơi nào đó được xem như là tổ ấm của mình, chuẫn bị mọi thứ
để đón chào mùa xuân mới! Như chỉ trong một đoạn đường nhỏ hẹp, đã có rất nhiều
dấu chân đi qua, rầm rập những bước chân đời qua lại bộn bề. Thông qua hình ảnh
những bàn chân, người ta có thể thấy được niềm hạnh phúc của người giàu có đan
xen với nỗi bất hạnh của những kẻ nghèo! Có những đôi chân nhỏ nhắn nuột nà
mang hài đỏ cài hoa lóng lánh, có những bàn chân to đùng với đôi hia bóng loáng,
có những bàn chân cong queo tàn tật kèm theo nạng gỗ, lại có cả những bàn chân
trần dính đầy bùn đất cáu bẩn …
Dọc
theo lề con lộ nằm cặp theo mé sông là chợ hoa Tết với đủ các loài hoa muôn
hồng nghìn tía đang khoe sắc hương. Nào là cúc đại đóa với màu vàng kiêu sa,
nào là hoa hồng tượng trưng cho tình yêu có các màu đỏ, vàng, trắng, phớt
hồng…, nào là tulip, nào là dạ yên thảo, rồi cẩm chướng, thược dược, cẩm tú
cầu… Xen kẻ trong muôn hoa rực rỡ hương xuân kia là bóng dáng những nông dân
vận áo quần lam lũ, chủ nhân của các gánh hàng hoa. Còn những khách mua hay
ngắm hoa đi rảo rảo loanh quanh các hàng hoa để tìm món hàng mình ưng ý. Tiếng
huyên náo, tiếng cò kè ngã giá bớt một thêm hai, tiếng xe chạy ngang qua … mọi
thứ như khuấy động những giây phút hấp hối buổi chiều cuối cùng của năm cũ.
Duy
chỉ có một người đàn ông vừa mới bước qua khỏi tuổi trung niên với dáng vẻ,
phục sức sang trọng là chẳng có vẻ gì gấp gáp cả! Dường như ông ta đến từ một
nơi nào đó rất xa xôi và đã ngồi trên chiếc ghế đá cạnh bờ sông Cái này đã lâu,
mặt hướng về phía dòng sông. Thỉnh thoảng, ông ta đảo mắt nhìn lơ đãng mọi thứ
chung quanh. Không biết bao nhiêu năm rồi, cứ vào buổi chiều cuối cùng của năm,
ông đều đến đây để kiếm tìm một kỷ niệm, hay nói đúng hơn là MỘT NGƯỜI. Đó là
một người con gái, người yêu đầu đời của ông, người đã biến mất khỏi cuộc đời
ông suốt ba mươi mấy năm nay mà chẳng hề để lại dấu vết gì! Và năm nào cũng
vậy, hình bóng của người con gái ấy cũng chỉ như bóng chim tăm cá, mọi tin tức
về nàng tựa như những vũ điệu trong bóng mờ.
Khi
ánh hoàng hôn tắt lịm phía chân trời, báo hiệu ngày đã lụi tàn, ông thở dài và
đứng dậy, có vẻ như đang sắp sửa rời khỏi chỗ ngồi. Bỗng nhiên, ông ta giật
mình như bị điện giật khi ánh mắt chạm vào một người đàn ông trông có vẻ quê
mùa đang ôm mấy cành mai đứng lẫn trong đám người lố nhố phía đàng xa.
“Trời
ơi!”. Ông ta thảng thốt kêu lên thành tiếng và bước những bước đi dài hơi xiêu
vẹo về phía người đàn ông kia. Đôi khi ông ta loạng choạng suýt ngã vì bị đám
đông xô đẩy, nhưng cuối cùng ông cũng đã đối diện người mà ông cần tìm gặp!
-
Đã gần bốn mươi năm rồi, phải không anh Tư? Sau những giây phút yên lặng vì xúc
cảm ngập tràn, cuối cùng người đàn ông có dáng vẻ sang trọng mở lời trước.
-
Ông… anh Thụy! Thật bất ngờ quá! Người đàn ông được gọi là “anh Tư” đáp lại:
Thế
là họ cùng ôm chặt lấy nhau. Rồi bỏ mặc dòng người đang hối hả ngược xuôi, họ
cùng nhau trở về quá khứ, thuở tóc họ hãy còn xanh, thuở dấu chân chim của thời
gian chưa hằn lên đuôi mắt họ!
Giữa
dòng đời rực rỡ hương sắc mùa xuân kia, đâu có ai biết rằng chính họ đã từng là
nhân chứng sống của một thời kỳ đáng nguyền rủa, một thời kỳ đáng để lụi tàn
theo thời gian …
21. TRUYỆN NGẮN: Chuyện nhỏ ở xóm cồn
CHUYỆN
NHỎ Ở XÓM CỒN
HÀ NGUYÊN
Xóm là cù lao nhỏ nằm trên sông Tiền, xung quanh bao bọc toàn bần
chen lẫn với ô rô, cóc kèn mọc lô nhô. Cả xóm gói gọn ước chừng vài mươi nóc
gia, đa phần là dân tứ xứ nghèo khổ tụ về đây lập nghiệp. Họ sống chủ yếu nhờ
vào ruộng rẫy, hạ bạc. Bần cùng hơn thì đi mò cua, bắt hến lây lất sống qua
ngày.
Trên xóm cồn, mọi sinh hoạt mua bán, giao tiếp hàng ngày của mọi
người đều tập trung vào cái chợ chồm hổm nằm ngay đầu cồn, trước trụ sở ấp. Mỗi
ngày, chợ chỉ họp từ tờ mờ sáng cho đến giữa giờ tỵ. Kề sát bên trụ sở ấp là
cái tiệm nước của gia đình ông trưởng ấp. Ông này gốc là thương binh nặng, được
phục viên rồi trôi nổi về xứ này sinh sống. “Sống lâu lên lão làng”, cộng với
bản tính ngay thẳng, cương trực nên ông được dân xóm cồn kính nể, tín nhiệm bầu
làm trưởng ấp kiêm luôn an ninh ấp.
Tiệm nước của gia đình ông bán đủ thứ hầm bà lằng: nào là cà phê, hủ tíu, nào là chạp phô có luôn cả la ve, ba xị đế… Đối với dân xóm cồn này, căn nhà lá tuềnh toàng vừa là tiệm nước, vừa là nhà của ông trưởng ấp là cái hội trường tổng hợp. Nó vừa là nơi trao đổi, mua bán duy nhất của cả xóm, vưa là nơi tụ hội vui chơi của mọi người sau một ngày lao động. Mọi thông tin đầu làng, cuối xóm đều được xuất phát từ nơi này!
Thuở đó, xóm cồn nghèo nàn và hiu quạnh lắm. Nó giống như một ốc đảo bởi tứ bế toàn là sông nước. Nhịp sống lại buồn tênh, xa rời mọi tiện nghi của đời sống văn minh. Trên đất xóm cồn, phù sa đang còn trong quá trình bồi lắng nên nhiều nơi hãy còn sình sụp, hoang sơ. Phương tiện đi lại trong xóm phải nhờ vào cầu khỉ và xuồng ghe. Do tứ bề toàn sông nước như thế, nên dân xóm cồn hầu như cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Tiệm nước của gia đình ông bán đủ thứ hầm bà lằng: nào là cà phê, hủ tíu, nào là chạp phô có luôn cả la ve, ba xị đế… Đối với dân xóm cồn này, căn nhà lá tuềnh toàng vừa là tiệm nước, vừa là nhà của ông trưởng ấp là cái hội trường tổng hợp. Nó vừa là nơi trao đổi, mua bán duy nhất của cả xóm, vưa là nơi tụ hội vui chơi của mọi người sau một ngày lao động. Mọi thông tin đầu làng, cuối xóm đều được xuất phát từ nơi này!
Thuở đó, xóm cồn nghèo nàn và hiu quạnh lắm. Nó giống như một ốc đảo bởi tứ bế toàn là sông nước. Nhịp sống lại buồn tênh, xa rời mọi tiện nghi của đời sống văn minh. Trên đất xóm cồn, phù sa đang còn trong quá trình bồi lắng nên nhiều nơi hãy còn sình sụp, hoang sơ. Phương tiện đi lại trong xóm phải nhờ vào cầu khỉ và xuồng ghe. Do tứ bề toàn sông nước như thế, nên dân xóm cồn hầu như cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
20. TRUYỆN NGẮN: Ngày về của biển - Hà Nguyên
NGÀY VỀ CỦA BIỂN
HÀ NGUYÊN
Người đàn bà đang bước đều trên con kiệt nhỏ. Dọc theo hai bên con kiệt là những vườn nhản, cây còn thấp lùm tùm được trồng chen lẫn với những liếp bông cúc Đà Lạt đủ màu sắc. Đây là vùng đất cù lao trù phú nằm trên một nhánh của sông Tiền có tên gọi là sông Cổ Chiên. Bất giác chị mỉm cười khi nhớ đến lời nói của người tài xế Honda ôm lúc thả chị xuống ở đầu con kiệt: ” Từ đây tới đó, cứ đi miết, chỉ một thôi đường là tới”. Một “thôi đường”, theo lời của người dân miệt vườn này, dễ chừng đi muốn rạc cả chân, nhất là đối với người hiện đang sống nơi thị thành, cứ mỗi bước là lên xe xuống ngựa, ít khi có dịp đi bộ xa như chị. Thế nhưng, khoảng cách này có nghĩa lý chi đâu nếu so với khoảng thời gian đằng đẳng mười hai năm chị đã chờ đợi đến mòn mõi, đã tìm kiếm đến vô vọng một bóng hình chẳng bao giờ phai mờ trong tâm khảm chị.
Sunday, February 14, 2016
18. ART: Watercolor by Painter Keiko Kobayashi
Watercolor
Very beautiful
by Sir. Keiko Kabayashi - Japanese Painter
Source page: https://www.facebook.com/keiko.kobayashi.5205?ref=ts&fref=ts
Very beautiful
by Sir. Keiko Kabayashi - Japanese Painter
Source page: https://www.facebook.com/keiko.kobayashi.5205?ref=ts&fref=ts
17. Một số vấn đề về ca khúc hôm nay
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CA KHÚC HÔM NAY
N gày nay, âm nhạc là một loại hình nghệ thuật không thể thiếu trong đời sống xã hội hiện đại. Nhu cầu tìm hiểu và sáng tác đã trở nên cần thiết đối với người yêu âm nhạc, nhất là giới trẻ.
Có nhiều thể loại âm nhạc. Trong đó, có một số thể loại điển hình như: hình thể Ca khúc (Canto), hình thể Dạ khúc (Serenata), hình thể Biến tấu (Varasione), hình thể Nhạc kịch (Opera)… Tuy nhiên, đối với đại đa số quần chúng Việt Nam ta, có lẽ Ca khúc là loại hình thể âm nhạc được mọi người biết đến và yêu thích nhiều nhất!
Danh từ “ca khúc” quen thuộc và đơn giản ấy lại bao hàm một khái niệm rộng lớn. Trong đó, có cả những sáng tác tự phát của nhân dân (Dân ca), những tác phẩm của các nhạc sĩ chuyên nghiệp (Ca khúc Nghệ thuật). Gần đây nhất lại còn xuất hiện những hình thái mới phục vụ cho thị trường quảng cáo, tiếp thị, biểu diễn thời trang (Kỹ nghệ Thương nhạc)…
Nét đặc trưng của “ca khúc” là một tác phẩm thanh nhạc chủ yếu khai thác triệt để âm điệu của tiếng nói con người. Khi tiếng nói được nâng lên thành tiếng hát thì nó trở thành một thứ nghệ thuật thanh nhạc. Và nếu như tiếng nói con người mà trong đó sự lên hay xuống giọng được thể hiện một cách tự phát, thì trong một ca khúc vấn đề lại khác hẳn! Ở đây, việc “lên giọng, xuống giọng” được hệ thống và trật tự hóa trên cơ sở một sự sắp xếp hài hòa theo chủ tâm của tác giả. Có một giai điệu được tiến dẫn theo quy luật về hòa thanh cộng với tiết tấu phù hợp với tâm lý nghe của đa số mọi người. Đây chính là nguyên nhân vì sao người ta hay dùng thơ ca làm lời ca thay cho văn xuôi! Chính yếu tố gieo vận trong thơ là tiền đề nảy sinh ra giai điệu!
Trong phạm vi nhỏ của bài viết này, người viết xin mạn phép bàn đến một số vấn đề của ca khúc. Đây là một trong những hình thái nghệ thuật tương đối đơn giản, nhưng lại có tầm bao quát rộng lớn trong đời sống âm nhạc hôm nay.
Nhìn chung, nền âm nhạc Việt Nam đương đại là một nền âm nhạc không cân đối. Nó rất mạnh về ca khúc phổ thông và rất yếu về hoạt động khí nhạc (trong khi trong thực tế, cả hai thể loại này đều rất quan trọng: một loại nhằm phục vụ cho đại đa số quần chúng, còn một loại cần thiết cho việc nâng cao và cách tân nghệ thuật đỉnh cao).
16. Boléro có phải là nhạc "sến" hay không?
BOLÉRO
CÓ PHẢI LÀ NHẠC "SẾN" HAY KHÔNG?
Boléro là một điệu nhảy dân tộc, có nguồn gốc xuất xứ từ nước Tây Ban Nha, do một vũ sư tên là Sébastian Zérezo sáng tạo. Sau đó, theo làn sóng người di cư sang Tân thế giới, tiết điệu Boléro được phát triển mạnh ở Mỹ châu La tinh, mà đặc biệt là ở Cu Ba.
Được du nhập vào Việt Nam từ thập niên 50 của thế kỷ XX. Theo tài liệu sử nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ chính là người đầu tiên đã sáng tác bài hát nổi tiếng “Duyên quê” bằng điệu Boléro. Âm điệu du dương của điệu nhạc này đã khiến cho khán thính giả thời đó nức lòng say mê! Rồi tiếp theo, còn rất nhiều nhạc sĩ khác ở miền Nam sáng tác nhiều ca khúc với tiết tấu Boléro như: Trúc Phương, Lam Phương, Dzũng Chinh, Vinh Sử… và ngay cả nhạc sĩ nổi tiếng Trịnh Công Sơn, cũng đã từng sáng tác ca khúc “Lời buồn thánh” với lời lẽ ca từ thật hoa mỹ:
“Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu. Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều. Trời mưa, trời mưa
ẢNH TƯ LIỆU TÍN ĐỨC: NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG, NGƯỜI NGỒI BÊN PHẢI (DẤU X),
ĐANG NGỒI CHẤM THI HỘI DIỄN VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG NĂM 1990 TẠI VĨNH LONG
ĐANG NGỒI CHẤM THI HỘI DIỄN VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG NĂM 1990 TẠI VĨNH LONG
15. THƠ: Xuân mơ, Tình phai
XUÂN MƠ
Thẳm xa tình em
bỗng đỏ lửa quay về
Anh thấy em trên cầu vồng tạp sắc
Em đứng đợi mùa xuân đến muộn
dáng xanh xao trong giấc mộng bụi bờ
……
Gió thôi hát
gió chỉ gào khản cổ
nắng ngậm ngùi phủ dụ đá phong rêu
……
Để bên kia
ôi bên kia nụ tình rưng rức
trải thảm xanh trên mỗi bước chân người
Anh mọc cánh
bay cao cùng xuân muộn
cùng với tay níu cành lộc sang mùa
……
Anh ngộp thở ôm trắng ngần tình lạ
Ghé môi hôn miền trăng lạnh cuối ngàn .
14. THƠ: Hoài mơ - Trăng Hạ - Nơi tôi đang sống
HOÀI MƠ
- Tôi vẫn cứ hoài mơ
mơ một ngày đươc trở về đất Vĩnh
được thấy lại Tiền giang đỏ ngầu nước lũ
chiều tan trường áo trắng rợp đường mơ
Ở nơi đó
tôi đã lớn lên bên bờ sông đất lở
bên mái lá nghèo ủ dột mưa bay
Ở nơi đó
mẹ của tôi trắng đầu sương chợ sớm
cha suốt ngày lam lũ cuối triền sông
Ở nơi đó
tôi còn lại người yêu thời đi học
run rẩy nụ hôn đầu trong góc tối không trăng
Lòng tôi mãi nhớ
nhớ cầu Lộ đêm về đứng mong em đến
nhớ gập ghềnh đường Nguyễn Du sỏi đá chân quen
nhớ chiều Trường An xang bóng dừa lộng gió
bàn tay ai níu kéo cuộc tình bay
Vĩnh Long ơi,
quê mẹ của tôi ơi
chiều qua tình cờ đọc tin trên báo
hay lũ về vượt mạn Tiền giang
bản tin ngắn mà buồn dài trăn trở
vì nhà tôi cũng ở cạnh bờ sông
con sông nhỏ cong oằn bao nỗi nhớ
cánh sóng buồn cuốn biệt tuổi thơ tôi
........
Đêm nay lại nằm mơ thấy được về đất Vĩnh
thấy mẹ đứng cười xanh mùa cổ tích
thấy cha về lưới nặng cá trên vai
lại thấy em về trên hè phố đẹp
rợp bóng cờ vẫy gọi nắng hồng tươi
Quê mẹ của tôi ơi
tôi vẫn cứ hoài mơ
mơ một ngày được trở về đất Vĩnh...
13. Vài kỷ niệm với Nhạc sĩ Trúc Phương - Tín Đức
VÀI KỶ NIỆM VỚI
NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG
LƯƠNG TÍN ĐỨC
(http://newvietart.com/index3.3933.html)
Năm 1984, nhạc sĩ Trúc Phương từ Duyên Hải, Trà Vinh lên Thị xã Vĩnh Long. Trong khi chờ đợi vào làm việc tại hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Cửu Long (lúc đó Vĩnh Long và Trà Vinh chưa tách tỉnh), qua sự giới thiệu của Họa sĩ Hồ Thủy, anh đến ở nhờ với chúng tôi. Thời gian đó, chúng tôi thuê nhà của chú Tư Lưu ở hẻm 25 (hẻm Lò bánh mì Phước Thành), đường 30-4 (đường Tống Phước Hiệp cũ).Gọi là “nhà” cho sang, chứ đó chỉ là một căn phòng nhỏ vỏn vẹn khoảng 8m2, nằm cặp sát mé sông Long Hồ, một nhánh của sông Cổ Chiên. Khi anh đến ở chung, sau khi hỏi ý chủ nhà, vợ tôi -Hà- đã chà rửa sạch cái chuồng heo cũ ở kế bên phòng của chúng tôi (trước đó chủ nhà nuôi heo ở đó), rồi lấy mấy tấm bảng hiệu cũ trải lên để làm chỗ ngủ cho anh. Ít lâu sau, hai em Long và Sơn là học trò học vẽ của tôi cùng đến ngủ chung với anh tại chuồng heo này!Những ngày ấy, dù cuộc sống còn thiếu thốn nhiều nhưng rất vui. Sau các bữa cơm tối, đêm đêm, chúng tôi ngồi quây quần bên bếp củi nấu nước uống trà, uống café, đàn ca hát xướng… Bạn bè văn nghệ cũng thường xuyên đến chơi rất đông. Có những người quen cũ của anh như nhà văn Sơn Nam (cùng đi với nhà văn Lý Lan), nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (tức Nhật Trường), ca sĩ Duy Khánh…cũng đã từng đến thăm anh tại nơi này!Thời gian này, theo sự đề nghị của tôi, Trúc Phương đã chép lại phần lớn nhạc của anh đã soạn trước 1975 để tặng cho tôi. Chữ viết của anh rất đẹp, anh thường dùng viết Bic màu đen để chép tay từng bản nhạc. Người bạn vong niên này của tôi cũng đã góp ý và trao đổi rất nhiều về kinh nghiệm soạn nhạc cho tôi… Anh cũng thường tâm sự với chúng tôi về những trải nghiệm trong cuộc sống, về những tháng ngày gian nan sau 1975 của anh. Anh kể: “ Sau 75, khi anh và vợ anh chia tay nhau (vợ anh là người Khmer lai Pháp), tài sản của anh vỏn vẹn chỉ có cái giỏ đệm đựng mấy bộ đồ, phải đi chân đất vì không có đôi dép mủ để đi…”
12. Cái Đẹp Trong Sự Hài Hòa Chung
Hội
họa là một trong những loại hình nghệ thuật xuất hiện lâu đời nhất trên trái
đất. Ngay từ thời tiền sử, tổ tiên ta không những đã biết dùng nó để làm phương
tiện thông tin, liên lạc với nhau, mà còn sử dụng các đường nét, hình khối ấy
để giải trí sau những giờ lao động. Những bức bích họa trong các hang động ở
vùng Lưỡng Hà, hay lưu vực sông Trường Giang trên đất nước Trung Hoa, cùng với
văn tự mang tính chất tượng hình của người Ai Cập hoặc Trung Quốc cổ đại, mà
cách thể hiện văn tự này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay đã minh chứng cho
điều đó!
11. Nguồn Gốc Lễ Vu Lan Trong Văn Hóa Dân Gian
(Ảnh nguồn: trithucvaphattrien.vn)
Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn
của Phật giáo Đại Thừa: “Phật Thuyết kinh Vu Lan Bồn” do ngài Trúc Pháp Hộ dịch
từ chữ Phạn sang chữ Hán vào đời Tây Tấn (khoảng năm 750-810 sau CN) và
được truyền vào Việt Nam không rõ năm nào! Được xuất phát từ giáo lý nhân sinh
của Phật Giáo, mục đích thể hiện chữ hiếu của con người. Đồng thời, cũng thể
hiện tấm lòng vị tha đối với những linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa.
Chữ “Vu Lan” có nguồn gốc từ chữ Phạn “Ulambana”, dịch ra
chữ Hán là “Giải đảo huyền”. Giải: có nghĩa là gỡ ra khỏi vướng mắc, cởi trói
buộc, giải mê lầm; đảo: ngược, (còn có nghĩa là những hành động điên đảo, sai
lầm); huyền: treo. “Giải đảo huyền” có ý nghĩa sâu xa là giải thoát khỏi những
nỗi phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc tham sân si.
Lễ Vu Lan còn có tên là “Vu Lan Bồn”. Chữ “bồn” có nghĩa
là chậu, dùng để diễn nghĩa chậu thức ăn dâng cúng. Lễ “Vu Lan” hay “Vu Lan Bồn” có nghĩa là lễ dâng cúng
thức ăn lên Tam bảo để xin chú nguyện cho ông bà, cha mẹ, những người quá cố
trong bảy đời (tức là cửu huyền thất tổ). Truyền thuyết dân gian cho rằng, khi
còn sống ở trần gian, nếu ai đã làm điều gì tội lỗi, thì khi chết đi sẽ bị đọa
vào địa ngục. Thế nhưng, nếu như được sự dâng cúng, chú nguyện, người đó sẽ
được nhờ ân đức Tam bảo, thoát ra khỏi địa ngục, sanh về cõi trời an lành khác.
10. Tìm Hiểu Về Vệ Đà Giáo Và Bà La Môn Giáo
*Tổng hợp từ các tài liệu bằng nguyên bản tiếng Anh
(Ảnh: Wikipedia)
Vệ Đà giáo và Bà La Môn giáo (hay Ấn Độ giáo) là hai tôn giáo có nguồn gốc xuất xứ từ Ấn Độ.
SƠ LƯỢC VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn, một
nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
3300 đến 1700 trước Công nguyên (TCN). Nền văn minh thời đại đồ đá này được nối
tiếp bởi thời đại đồ sắt thuộc thời kỳ Vệ Đà, thời kỳ đã chứng kiến sự nở rộ
của các vương quốc lớn được biết đến với cái tên Mahajanapadas. Giữa hai giai
đoạn này, vào thế kỷ thứ VI TCN, Mahavira và Thích Ca Mâu Ni ra đời.
Tiểu lục địa Ấn Độ được thống nhất dưới vương triều Maurya trong suốt hai thế kỷ III và IV TCN. Sau đó, nó lại tan vỡ và rất nhiều phần bị thống trị bởi vô số những vương quốc thời Trung cổ trong hơn mười thế kỷ tiếp theo. Những phần ở phía Bắc được tái hợp một lần nữa vào thế kỷ thứ IV sau Công nguyên (SCN) và duy trì được sự thống nhất này trong hai thế kỷ, dưới thời của vương triều Gupta. Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ. Trong suốt thời kỳ này và vài thế kỷ sau đó, Ấn Độ bị thống trị bởi các vương triều Chalukya, Chola, Pallva và Pandya và trải qua giai đoạn vàng son của mỗi thời kỳ. Cũng trong thời điểm này, đạo Hindu và đạo Phật đã lan tỏa tới rất nhiều vùng tại Đông Nam Á.
9. Sơ lược về lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ thượng cổ đến cận đại
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ PHẬT
GIÁO VIỆT NAM
TỪ THƯỢNG CỔ ĐẾN CẬN ĐẠI
Bài viết sưu tầm của Hà Nguyên
Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Hiện vẫn chưa xác định chính xác thời điểm đạo
Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam từ lúc nào. Dựa trên giả thiết, có một nghiên
cứu cho rằng Phật giáo Nguyên thủy truyền vào Giao Chỉ trong khoảng từ
thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên bằng truyện “Nhất dạ trạch”
trong tập “Lĩnh Nam trích quái” của Nguyễn Dữ đời Trần kể lại việc Chử Đồng Tử
và công chúa Tiên Dung được học đạo Phật với một nhà sư tên là Phật Quang.
Theo tác phẩm “Việt Nam Phật giáo sử luận” của
Nguyễn Lang, trong hai thế kỉ thứ I và thứ II sau Công Nguyên, ngoài hai trung
tâm Phật giáo tại Trung Quốc là Lạc Dương và Bành Thành, còn một trung tâm thứ
3 xuất hiện tại Luy Lâu, thuộc Giao Chỉ (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam), Có
người cho rằng, Luy Lâu đã được hình thành trong đầu thế kỉ thứ I, sớm hơn cả
Lạc Dương và Bành Thành. Có một điều chắc chắn là trung tâm Luy Lâu này đã được
hình thành từ các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, chứ không phải từ Trung Quốc.
Sau đó, sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
cùng do cả 2 con đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phương Bắc
xuống.
Vào năm 189 sau Công Nguyên, tác phẩm về Phật
giáo đầu tiên “Lý hoặc luận” được nhà truyền giáo đầu tiên là Mâu Tử (hay Mâu
Bác) viết tại đất Giao Chỉ. Đến năm 247 sau Công Nguyên, thiền sư Khương Tăng
Hội (có cha gốc là người Khương Cư - Ấn Độ) là vị thiền sư người Việt đầu
tiên sang Đông Ngô -một trong ba nước thời Tam Quốc- truyền đạo. Năm 580,
thành lập Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi và thành lập Thiền phái Vô Ngôn Thông năm
820. Dần dần, đạo Phật càng lúc càng thâm nhập vào dân chúng và chịu ảnh hưởng
bởi Phật giáo phương Bắc. Có một điều đáng ngạc nhiên là, mặc dù Phật giáo
Trung Quốc có đến 10 tông phái*, thế nhưng chỉ có Thiền tông là được truyền
sang nước ta trước nhất và mạnh mẽ nhất!
Sau giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc, nước ta hoàn
toàn độc lập vào năm 939. Các vương triều Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý và nhà Trần đều
xem Phật giáo là Quốc giáo. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng ban chức “Tăng thống”
đầu tiên cho Thiền sư Khuông Việt (tức Ngô Chân Lưu). Vua Lê Đại Hành mời Thiền
sư Pháp Thuận (hay Đỗ Thuận) và Vạn Hạnh làm cố vấn về chính trị. Năm 1009, nhà
Lý ra đời, mở đầu cho thời cực thịnh của Phật giáo tại Việt Nam kéo dài khoảng
400 năm. Các vị vua thời Lý đều tôn sùng đạo Phật và lấy đạo từ bi làm phương
pháp trị nước. Vào năm 1069, thành lập Thiền phái Thảo Đường. Trong thời gian
này, Phật giáo Đại thừa với các tạng kinh: Kim cương, Dược sư, Pháp hoa, Viên
giác… được truyền tụng.
8. Ý Nghĩa Của Sự Giác Ngộ Trong Phật Giáo
(Tượng: Hòa Thượng Tịnh Sự tại Chùa Viên Giác
Vĩnh Long do Tín Đức thực hiện)
Giác ngộ là gì?
Giác ngộ là một
quá trình chuyển hóa toàn diện của một con người xảy ra ở bốn phương diện, đó
là: tri thức, tình cảm, thái độ và cách cư xử.
Theo từ nguyên,
Phật (Buddha) có nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức hoàn toàn khỏi các
ràng buộc và chấp thủ của thế gian. Và sự giác ngộ (bodhi) là sự tỉnh thức về
các hiện hữu và đời sống bằng con mắt của lý nhân duyên.
Xuất phát từ
kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha) và bằng
những nỗ lực tích cực của bản thân thông qua con đường thiền định và quán
chiếu, Đức Phật đã trở thành một bậc giác ngộ tối thượng đầu tiên trong lịch sử
nhân loại. Sau khi tự mình thực chứng con đường giác ngộ, Đức Phật đã hướng dẫn
chúng sinh một cách khéo léo và tỉ mỹ những kinh nghiệm giác ngộ của Ngài và
con đường đã đưa Ngài đạt đến mục đích!
Giác ngộ đầu
tiên là sự chuyển hóa về tri thức: sự ngu muội được thay thế bằng tuệ giác. Kế
tiếp là sự chuyển hóa tình cảm: thái độ sợ hãi và lo âu được thay thế bằng sự
an tịnh, đau khổ bằng hạnh phúc. Thứ ba là sự chuyển hóa trong thái độ: cố chấp
được thay thế bằng cởi mở. Và thứ tư là sự chuyển hóa trong cách cư xử: sự tước
đoạt được thay thế bằng sự ban cho, sự lười biếng bằng sự năng động và sự phá
hoại bằng sự kiến tạo.
7. Tư Tưởng Của Triết Học Phật Giáo - Hà Nguyên
Tư Tưởng Của Triết Học Phật Giáo
Bottom of
Form
Đạo Phật có phải là một tôn giáo hay không? Đó là một câu hỏi chưa ai có lời giải đáp cụ thể khi đạo Phật ngày nay được xem là một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới; và đã đóng vai trò vô cùng quan trọng cũng như chịu sự ảnh hưởng trong bối cảnh lịch sử và văn hóa của truyền thống tôn giáo và triết học Đông phương.
6. Một số nhận xét về Phật Giáo Nam Tông và Phật Giáo Bắc Tông - Hà Nguyên
Trước đây,
người ta thường cho rằng giáo lý Nguyên Thủy là giáo lý Tiểu Thừa không đưa đến
quả vị tối hậu thành Phật, mà chỉ có giáo lý Đại Thừa mới là giáo lý chân chính
của Phật giáo. Ngược lại, một số khác lại cho rằng giáo lý Nguyên Thủy mới
chính truyền là của Phật, còn giáo lý Đại Thừa là ngoại đạo. Sự bất đồng quan
điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ cả hai truyền thống đến hàng ngàn năm!
Ngày nay, với
những phương tiện tiến bộ, quan điểm như thế về Tiểu Thừa và Đại Thừa đã không
còn thích hợp! Phần lớn các nhà nghiên cứu Phật giáo đều chấp nhận một số tư
tưởng Đại Thừa là những tư tưởng của Phật giáo Nguyên Thủy. Nếu chúng ta chịu
khó so sánh bốn tập A Hàm của Trung Quốc với các tập Pàli Nikàya tương đương,
chúng ta sẽ thấy có nhiều đoạn văn A Hàm lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pàli.
Thái độ của một
số Phật tử Đại Thừa xem tư tưởng Tiểu Thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng
học hỏi, cũng như phủ nhận ba tạng Pàli, bốn bộ A Hàm và các Luật, Tạng không
phải là những tinh hoa tốt đẹp và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy, cũng là
một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản tri thức!
5. Chúng ta nên hiểu về Đạo Phật như thế nào? - Hà Nguyên
CHÚNG
TA NÊN HIỂU VỀ ĐẠO PHẬT
NHƯ
THẾ NÀO?
Bài
viết của Hà Nguyên
Tặng
chị Kim Hương
Đạo
Phật không phải là một tôn giáo hay một tín ngưỡng thuần túy, mà là một hệ
thống tư tưởng thống nhất! Chúng ta có thể khẳng định điều này, bởi vì tất cả
giáo lý Phật giáo đều là nền tảng cho việc xây dựng một con người giác ngộ, vị
tha, xem cuộc sống là lý tưởng cao quý của đời mình với tâm hồn từ, bi, hỷ, xả!
Đặc
điểm lớn nhất của người khai sáng cho Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni -một nhân
vật lịch sử có thật-, là không bao giờ tự nhận mình là người duy nhất đem lại
sự giải thoát cho loài người. Ngài đã từng nói: “Con người ai ai cũng có Phật
tính. Trước Người, đã có hằng hà sa số Phật!”
4. Bàn Về Vấn Đề Vô Ngã Trong Phật Giáo
Bàn Về Vấn Đề Vô Ngã
Trong Phật Giáo
Bottom of Form
Hàng ngày, thỉnh thoảng ta bắt gặp hình ảnh các vị sư sãi đi khất thực trên
đường phố. Họ làm như thế với mục đích gì?
Đối với các tỳ-kheo, việc khất thực có những điều lợi ích: tâm trí được rảnh
rang, ít phiền não, không bận rộn tâm và thân vì sinh kế, đoạn trừ tâm kiêu
căng, ngã mạn; đồng thời, tín chúng có thể tùy theo phương tiện mà hỷ cúng, có
thể tùy lúc tùy nơi để thân cận Tam Bảo. Và điều quan trọng hơn cả là để diệt
ngã.
NGÃ LÀ GÌ? TẠI
SAO CẦN PHẢI DIỆT NGÃ?
Mỗi tôn giáo hay một quan điểm triết học đều có những định nghĩa khác nhau về
ngã.
Theo tiếng Việt, “ngã” hay “bản ngã” có nghĩa là “cái tôi” hoặc “cái ta”. Tương
tự như thế, triết học Tây phương gọi ngã là “ego”. Tiếng Pháp gọi ngã là “le
moi”. Tiếng Anh là “myself”. Tiếng Sanskrit gọi ngã là “atman”. Một
cách tổng quát, ngã có nghĩa là một thực thể (tức là một cái gì có thật) trường
tồn, và là một phần của con người, là một cái tôi tuyệt đối riêng biệt, không
ai thay thế được. Là phần làm chủ và trách nhiệm mọi tư duy, tình cảm, ý chí,
hành động của con người.
Nói cách khác, ngã là một nhóm của những chức năng tinh thần hay quá trình cho
phép chúng ta tri giác, lý luận, phán đoán, chứa đựng những ký ức và giải quyết
nhiều vấn đề khác nhau. Bản ngã là một phần của nhân cách trong sự giao tiếp
với thế giới bên ngoài.
Cơ Đốc giáo lại gọi ngã theo một ý nghĩa khác có tên là “soul” (có nghĩa là
linh hồn).
Thế nhưng, theo quan điểm của Phật Giáo, tất cả những khái niệm về ngã như thế
đều không đúng! Đối với triết học Phật Giáo, một ngã như thế là không có thật,
mọi quan niệm về ngã chỉ là ảo tưởng, mọi nhận thức về ngã chỉ là ảo giác. Vạn
vật, kể cả “cái ta” cũng không có thật, không có tự tánh, không thể nắm bắt,
không sinh không diệt. Sự sinh và diệt mà chúng ta thấy mỗi ngày chỉ là sự sinh
và diệt của những ảo ảnh.
3. Bàn Về Vấn Đề Nghiệp Quả
Khái niệm và niềm tin
về Nghiệp đã có mặt trong triết học Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, nhưng
chính Đức Phật đã giảng dạy và hoàn chỉnh học thuyết này!
Vì không hiểu
nổi sự khác biệt nhau giữa những con người, một Bà la môn trẻ tên là Subha đã
đến gặp đức Phật và nhờ Ngài giải thích nguyên nhân của sự bất tương đồng :
nguyên nhân và những điều kiện nào mà loài người, có người ưu, người nhược;
người hơn , người kém? Có người sống lâu, có người chết trẻ; có người bệnh yếu,
có người khoẻ mạnh,; có người đẹp, người xấu; có người có quyền, có người không
có quyền; có người nghèo, có người giàu; có người sanh ra hạ tiện, có người
sanh ra cao quý; có người ngu, có người khôn?
Đức Phật đã trả
lời rằng: "Tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của những hành động của mình,
là người thừa hưởng của những hành động của mình, chúng sinh khởi sinh (đầu
thai) từ những hành động của mình, chúng sinh đều liên quan với những hành động
của mình, có những hành động của mình làm nơi nương tựa cho mình. Đó là hành
động (nghiệp) làm cho chúng sinh hơn kém khác nhau".