www.facebook.com/tinducvinhlong

Vì không là chiếc lá vô tri nên không bay theo chiều gió cuốn .............. Vì không là dòng sông lạnh lẽo nên không giấu kín lòng sâu đen ..........

Sunday, February 14, 2016

9. Sơ lược về lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ thượng cổ đến cận đại


SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỪ THƯỢNG CỔ ĐẾN CẬN ĐẠI
Bài viết sưu tầm của Hà Nguyên

                                   Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Hiện vẫn chưa xác định chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam từ lúc nào. Dựa trên giả thiết, có một nghiên cứu cho rằng Phật giáo Nguyên thủy truyền vào Giao Chỉ  trong khoảng từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên bằng truyện “Nhất dạ trạch” trong tập “Lĩnh Nam trích quái” của Nguyễn Dữ đời Trần kể lại việc Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung được học đạo Phật với một nhà sư tên là Phật Quang.
Theo tác phẩm “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, trong hai thế kỉ thứ I và thứ II sau Công Nguyên, ngoài hai trung tâm Phật giáo tại Trung Quốc là Lạc Dương và Bành Thành, còn một trung tâm thứ 3 xuất hiện tại Luy Lâu, thuộc Giao Chỉ (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam), Có người cho rằng, Luy Lâu đã được hình thành trong đầu thế kỉ thứ I, sớm hơn cả Lạc Dương và Bành Thành. Có một điều chắc chắn là trung tâm Luy Lâu này đã được hình thành từ các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, chứ không phải từ Trung Quốc.
Sau đó, sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam cùng do cả 2 con đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phương Bắc xuống.
Vào năm 189 sau Công Nguyên, tác phẩm về Phật giáo đầu tiên “Lý hoặc luận” được nhà truyền giáo đầu tiên là Mâu Tử (hay Mâu Bác) viết tại đất Giao Chỉ. Đến năm 247 sau Công Nguyên, thiền sư Khương Tăng Hội (có cha gốc là người Khương Cư - Ấn Độ)  là vị thiền sư người Việt đầu tiên sang Đông Ngô -một trong ba nước thời Tam Quốc-  truyền đạo. Năm 580, thành lập Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi và thành lập Thiền phái Vô Ngôn Thông năm 820. Dần dần, đạo Phật càng lúc càng thâm nhập vào dân chúng và chịu ảnh hưởng bởi Phật giáo phương Bắc. Có một điều đáng ngạc nhiên là, mặc dù Phật giáo Trung Quốc có đến 10 tông phái*, thế nhưng chỉ có Thiền tông là được truyền sang nước ta trước nhất và mạnh mẽ nhất!
Sau giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc, nước ta hoàn toàn độc lập vào năm 939. Các vương triều Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý và nhà Trần đều xem Phật giáo là Quốc giáo. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng ban chức “Tăng thống” đầu tiên cho Thiền sư Khuông Việt (tức Ngô Chân Lưu). Vua Lê Đại Hành mời Thiền sư Pháp Thuận (hay Đỗ Thuận) và Vạn Hạnh làm cố vấn về chính trị. Năm 1009, nhà Lý ra đời, mở đầu cho thời cực thịnh của Phật giáo tại Việt Nam kéo dài khoảng 400 năm. Các vị vua thời Lý đều tôn sùng đạo Phật và lấy đạo từ bi làm phương pháp trị nước. Vào năm 1069, thành lập Thiền phái Thảo Đường. Trong thời gian này, Phật giáo Đại thừa với các tạng kinh: Kim cương, Dược sư, Pháp hoa, Viên giác… được truyền tụng.


Đầu thế kỉ XIII, nhà Trần lên ngôi, đồng thời 3 thiền phái: Tì-ni-đa Lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần nhập lại một. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của Phật giáo Việt Nam. Các vua thời Trần đa số đều là những Thiền sư uyên bác, và một trong những vị xuất sắc nhất phải kể đến là vua Trần Thái Tông (1218-1277). Một nhân vật quan trọng khác của hoàng tộc nhà Trần là Huệ Trung (hay Tuệ Trung) Thượng Sĩ, tức Trần Quốc Tung, anh cả của Trần Hưng Đạo và là anh vợ của vua Trần Thánh Tông**. Thiền phái duy nhất ở nước ta thời này, được xem là tổng hợp của ba thiền phái kia là thiền Yên Tử (hay Trúc Lâm)
Và quan trọng hơn cả là vào năm 1299, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, Thiền phái lớn đầu tiên của người Việt do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Vua Trần Nhân Tông chính là Tổ thứ 6 của dòng Thiền Yên Tử và là Đệ nhất Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trong thời nhà Trần, các bộ kinh Kim cương, Pháp hoa, Bát nhã, Lăng già và Hoa nghiêm được lưu truyền rất rộng rãi. Hai nhà sư có đóng góp quan trọng là Pháp Loa và Huyền Quang.
Đến năm 1400, nhà Trần mất, nhà Hậu Lê tôn Nho học làm Quốc giáo. Thời gian này, Phật giáo chính thức suy thoái.
Mãi đến thế kỉ 17, hai dòng Thiền quan trọng là Tào Động phát triển ở Đàng Ngoài và Lâm Tế ở Đàng Trong từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam. Một lần nữa, Phật giáo lại phục hưng; trong đó, Thiền sư Chân Nguyên và Hương Hải hoạt động ở Đàng Ngoài. Ở Đàng Trong, chúa Tiên (tức chúa Nguyễn Hoàng) là người coi trọng đạo Phật, cho xây chùa Thiên Mụ năm 1601. Tại đây, Thiền sư Liễu Quán và các môn đệ của ngài đã có công phục hưng Phật giáo.
Đến đầu thế kỉ XIX, Gia Long thắng Tây Sơn. Sau những năm chinh chiến, Phật giáo cũng bị nhiều thương tổn. Các vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều có để tâm chấn chỉnh Phật giáo.
Vào năm 1857, Pháp xâm lược Việt Nam. Phật giáo thêm một lần nữa bị suy thoái do chính sách của nhiều chính quyền kế tiếp nhau trong hơn 100 năm.
Kể từ khi truyền vào Việt Nam đến nay, trải qua hơn 2.000 năm, Phật giáo đã dần dần đi vào tâm thức, ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ, cách sống của phần đông người Việt. Tuy có lúc thịnh, lúc suy do những nguyên nhân nội tại cũng như khách quan, nhưng đạo Phật từ lâu đã có vai trò quan trọng trong đời sống người Việt, góp phần không nhỏ trong di sản lịch sử và văn hóa của đất nước Việt Nam.
Ở VN hiện nay, cùng với đạo thờ phụng tổ tiên truyền thống, đạo Phật là tín ngưỡng được người dân tôn thờ nhiều nhất. Tất cả các tông phái quan trọng của đạo Phật như Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Phật giáo Nguyên thủy...  đều được người dân hành trì, tu tập.
Bài viết ngắn trên đây được ra đời mang mục đích chia sẻ với bạn bè cũng như các bạn có cùng ý thích muốn tìm hiểu về Phật giáo, một tôn giáo dù đã xuất hiện trên thế giới từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước nhưng ngày nay vẫn còn mang tính khoa học và hiện đại.
HÀ NGUYÊN (sưu tầm)
       18-3-2013

CHÚ THÍCH:
* : Mười tông phái Phật giáo Trung Quốc: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Mật tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, Tam luận tông, Câu xá tông và Thành thật tông.

**: Nhà Trần hay có những cuộc hôn nhân cùng chung huyết thống.


Share:

0 comments:

Post a Comment

Powered by Blogger.

Tin về Hà Nguyên


TÁC GIẢ HÀ NGUYÊN CÓ TÁC PHẨM DO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI BÌNH CHỌN “TRUYỆN NGẮN HAY ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU NHẤT 2015” Vừa qua, Hà Nguyên, một cây bút nữ hiện ngụ tại Phường 1, Thành phố Vĩnh Long, là cộng tác viên thường xuyên của báo Vĩnh Long và một số báo ở đồng bằng sông Cửu Long đã được cộng đồng người Việt hải ngoại bình chọn tác phẩm “Chuyện nhỏ ở xóm Cồn” của chị là truyện ngắn viết bằng Việt ngữ được đọc nhiều nhất năm 2015. Truyện ngắn “Chuyện Nhỏ Ở Xóm Cồn” được đăng lần đầu tiên trên báo Vĩnh Long. Sau đó, qua đường truyền của Vĩnh Long Online, truyện ngắn này được cộng đồng người Việt ở các nước Nga, Mỹ, Đức, Hungary, Canada, Pháp, Tây Ban Nha, Australia… truyền tải và phổ biến. Lấy cảm hứng từ cuộc sống nông thôn Nam Bộ với bút pháp bình dị nhưng không quê mùa, chứng tỏ tác giả có sự trau chuốt ngôn từ rất cẩn thận, Hà Nguyên đã đưa cái chân quê Nam Bộ vào trong truyện ngắn này để tạo ra nét đặc thù rất riêng. “Chuyện nhỏ ở xóm Cồn” kể về sinh hoạt của những người bần cùng, đa phần sống bằng nghề hạ bạc trên một cù lao nhỏ nằm trên dòng Tiền giang ở giai đoạn những năm 50 của thế kỷ trước. Một ngày nọ, có một gánh hát thuật sơn đông gồm một anh chàng cổ quái nhưng đa tài cùng với hai đồ đệ là con chó cò và con khỉ nhỏ đến diễn trò và bán thuốc sơn đông. Từ đó, cuộc sống êm đềm của những người bần cùng trên cù lao này dần dà trở nên thay đổi… Ngoài truyện ngắn trên, Hà Nguyên còn sáng tác một số truyện ngắn, tạp văn, khảo cứu… và ở lĩnh vực nào, chị cũng thành công. Có được thành quả như thế, có lẽ nhờ vào vốn sống ngồn ngộn của chị! Từ một cuộc sống trưởng giả, cuộc đời chị đã từng trải qua nhiều thăng trầm, đắng cay, bất hạnh… Trong quá khứ, chị từng làm rất nhiều nghề: phóng viên, chủ cơ sở kinh doanh, dạy ngoại ngữ, phân loại rác cầu tiêu cho một cơ sở tái chế giấy, bán vé số dạo, dọn dẹp nhà vệ sinh trong vũ trường… Thời gian bán vé số dạo và làm tạp vụ trong vũ trường, chị quen biết và kết thân với những người sống ở tận đáy xã hội, những người nghèo khổ buôn gánh bán bưng, thậm chí cả dân giang hồ tứ chiếng. Quãng thời gian này, đêm nào chị cũng lê la khắp cùng khu vực chợ Vĩnh Long, từng ăn “cơm ma”, “hủ tiếu ma”, uống cà phê “phố đêm”… những nơi mà có thể những người sống cả đời ở thành phố Vĩnh Long chưa chắc biết! Và vốn sống thứ hai của Hà Nguyên là chị có học qua một số ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, Nga, Hán, Pãli, nhờ thế là phương tiện làm cầu nối để chị tiếp cận với văn học nước ngoài. Chị cũng đã từng học qua Đại học Phật giáo tại Học viện Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, học khoa Thần học bên Thiên chúa giáo tại Fatima Vĩnh Long. Hiện tại, chị đang là giáo viên dạy Năng khiếu tại Trung tâm Hoạt động Thanh Thiếu niên tỉnh Vĩnh Long.